Người vá những “vết rách tử thần”

Ngày cập nhật 24/08/2023 Tác giả Admin RaoThue Lượt xem 2

“Vết rách tử thần” ở đây chỉ căn bệnh phình mạch não vỡ mà nếu ai mắc phải coi như đã bước vào cửa tử. May thay, có người đã kéo họ trở lại với sự sống-đó là GS, TS, BS Phạm Minh Thông, Phó giám đốc Bệnh viện Bạch Mai, Trưởng khoa Chẩn đoán hình ảnh, Phó trưởng Bộ môn Chẩn đoán hình ảnh Trường Đại học Y Hà Nội.

Hai lần đi Pháp học nghề, chưa đủ…

Năm 1976, cậu học trò gầy ốm quặt quẹo Phạm Minh Thông đỗ vào Trường Đại học Y Hà Nội chỉ với mục tiêu chăm sóc sức khỏe cho những người thân trong gia đình. “Ngày nhập học, bố với bác tôi thấy tôi thiếu cân, sợ người ta đuổi nên đúc thêm chì nhét vào trong người tôi”, bác sĩ (BS) Thông kể lại. Người học trò nhỏ khi ấy cao chỉ 1m50, nặng chưa đến 40kg.

Tốt nghiệp đại học, Phạm Minh Thông thi đỗ vào học nội trú ngành điện quang và cũng là người đầu tiên tham gia chụp mạch với các thầy bởi các học viên khác không dám vào, sợ “ăn tia” (tia phóng xạ) ảnh hưởng tới sức khỏe. Nhờ say mê học tập, Phạm Minh Thông là bác sĩ trẻ đầu tiên của ngành điện quang được lựa chọn đi du học Pháp.

GS, TS, BS Phạm Minh Thông (bên phải).

Từ năm 1990 đến 1993, Phạm Minh Thông hai lần sang Pháp tu nghiệp, học chuyên sâu về mạch và can thiệp mạch. Năm 1995, BS Phạm Minh Thông chuyển từ Bệnh viện Việt Đức sang Bệnh viện Bạch Mai, bắt đầu triển khai các can thiệp mạch thận và các mạch ngoại biên. Bệnh viện Bạch Mai khi đó tuy chưa có hệ thống chụp mạch chuyên dụng nhưng đã có máy chụp tăng sáng có thể làm các can thiệp được, ông đã cùng đồng nghiệp triển khai các kỹ thuật chụp mạch chẩn đoán và can thiệp điều trị một số bệnh qua đường động mạch, nhất là điều trị hẹp động mạch thận.

Cuối những năm 90 thế kỷ trước, nước ta chưa có điện quang can thiệp về thần kinh. Rất nhiều bệnh nhân có bệnh lý về thông động mạch cảnh xoang hang (vỡ động mạch cảnh đoạn đi trong xoang hang do chấn thương), mắt người bệnh lồi ra, rất đau đớn. Nếu điều trị muộn, người bệnh không chỉ bị mù mắt mà thậm chí còn ảnh hưởng đến tính mạng. Biện pháp xử lý duy nhất chỉ có cách là phải mổ, nhưng cách này lại thường gây tai biến.

Qua thời gian học ở Pháp, BS Phạm Minh Thông nhận thấy mổ là giải pháp đã lạc hậu. “Xu thế chung của thế giới là phòng bệnh, chẩn đoán sớm và điều trị kịp thời, đặc biệt là điều trị bằng các kỹ thuật ít xâm lấn. “Nút mạch” là một trong những kỹ thuật như thế””-ông kể. Đây là kỹ thuật đưa một ống rất nhỏ, độ 0,5mm, đi theo động mạch đùi lên não, đưa vào trong mạch máu bị vỡ để bít lại.

Quyết tâm đưa kỹ thuật đó về Việt Nam, BS Phạm Minh Thông mày mò xin dụng cụ về làm. Ca đầu tiên là tiến hành điều trị thông động mạch cảnh xoang hang vào năm 1999. “Trước khi can thiệp chúng tôi đã hội chẩn với hội đồng các giáo sư nổi tiếng trong ngành y như: Cố GS Hoàng Kỷ, GS Vũ Văn Đính, GS Phạm Gia Khải, GS Dương Trạm Uyên nhưng khi bắt tay vào làm, chúng tôi đã thất bại”-thoáng nét buồn trong đôi mắt, BS Phạm Minh Thông hồi tưởng.

Sau thất bại này, ông mời GS Đờ-ra-mông (Deramond), GS Pi-a-rốt (Pierot), là những chuyên gia hàng đầu của Pháp về can thiệp thần kinh sang giúp đỡ, truyền đạt kinh nghiệm thực tế. Kể từ đây, BS Phạm Minh Thông làm chủ được kỹ thuật, áp dụng thành công.

Đi nước ngoài để… xin dụng cụ

Năm 2001, thông qua hội đồng khoa học, BS Phạm Minh Thông triển khai các kỹ thuật can thiệp thần kinh và đạt nhiều kết quả tốt. Đến năm 2004, BS Phạm Minh Thông vào TP Hồ Chí Minh phổ biến kỹ thuật, trở thành người cầm tay chỉ việc cho các bác sĩ ở một số bệnh viện lớn tại đây. Từ 2005, kỹ thuật điện quang về can thiệp thần kinh được mở rộng.

Nhớ lại thời gian đầu triển khai các kỹ thuật can thiệp nội mạch, BS Phạm Minh Thông tươi cười kể: Khi ấy rất khó khăn vì không có dụng cụ. Do thiếu dụng cụ nên tôi đều phải đi xin. Nhiều người vẫn cười tôi vì người khác đi nước ngoài đều mang về rất nhiều đồ dùng sinh hoạt thiết yếu, còn trong va-li của tôi thì chỉ thấy dụng cụ y tế. Chúng tôi xin các dụng cụ đó của các bạn nước ngoài để có cái mà làm.

Đến nay, rất nhiều kỹ thuật can thiệp nói chung đều được đưa vào các danh mục kỹ thuật, do đó chi phí mua các trang thiết bị, các dụng cụ được bảo hiểm chi trả một phần, người bệnh được hưởng các kỹ thuật hiện đại, tiên tiến với giá thành thấp.

Ngoài khó khăn về điều kiện vật chất còn có khó khăn về mặt thời gian. “Nút mạch” là kỹ thuật đòi hỏi người bác sĩ có kiến thức chuyên môn vững vàng và đặc biệt cần có tay nghề. Các thao tác phải vô cùng chính xác bởi chỉ cần một sai sót nhỏ, các dụng cụ có thể đi ra ngoài lòng mạch, gây biến chứng chảy máu, nguy hiểm cho người bệnh. Do đó, việc học, thực hành mất rất nhiều thời gian, công sức cũng như sự tỉ mỉ, nghiêm cẩn. Để chuyển giao kỹ thuật, ví dụ kỹ thuật thần kinh, các bác sĩ tuyến dưới tối thiểu phải mất khoảng 2 năm mới thành thạo, có thể tiến hành độc lập được. Bên cạnh đó, phải liên tục kết nối, cử chuyên gia đi đi về về. Những ca khó, các nơi khác vẫn phải mời ông tới, bởi kỹ thuật liên tục phát triển, cần phải cập nhật liên tục mới có thể bắt kịp được.

Rất nhiều lần ông làm việc đến 1-2 giờ sáng cùng các chuyên gia nước ngoài. Trưa ăn tạm chiếc bánh mì tại phòng rồi lại lao vào làm việc ngay.

Bằng việc đưa những kỹ thuật can thiệp điện quang thần kinh về áp dụng tại Việt Nam, GS Phạm Minh Thông đã thay đổi quan điểm trong chẩn đoán và điều trị bệnh lý mạch máu thần kinh. Các kỹ thuật được nhân rộng, rất nhiều bệnh nhân được cứu sống, can thiệp điện quang thần kinh đã thay thế hoàn toàn phẫu thuật trong điều trị thông động mạch cảnh xoang hang do chấn thương, một bệnh thường gặp ở Việt Nam. Giờ đây, hằng năm chỉ tính riêng Bệnh viện Bạch Mai có khoảng 200 bệnh nhân phình mạch não được điều trị thành công, hàng trăm bệnh nhân khác được điều trị thông động mạch cảnh xoang hang, hàng trăm bệnh nhân đột quỵ não được chẩn đoán và được điều trị tiêu sợi huyết hay lấy huyết khối kịp thời, cứu sống bệnh nhân đột quỵ và không để lại di chứng.

Người bác sĩ tận tâm, người thầy tận tụy

Tận tâm cứu chữa người bệnh, GS Phạm Minh Thông được rất nhiều bệnh nhân nhớ đến. Sự tri ân của bệnh nhân và người nhà của họ với ông khiến ông rất xúc động. Một lần, ông điều trị cho một cháu nhỏ học cấp 2 bị cao huyết áp. Cháu bé xanh gầy, bị hẹp động mạch thận. Ông phải trực tiếp nong động mạch thận. Cháu bé khỏi bệnh, lớn nhanh, rồi cháu đi học đại học, lấy chồng, trở thành cô gái rất xinh đẹp. Bố của bệnh nhân làm nghề buôn cua, cứ hôm nào xuống Hà Nội là lại mang cua tặng bác sĩ. Đó là những ca đầu tiên mà GS Phạm Minh Thông bắt đầu triển khai kỹ thuật mà bệnh nhân khỏi hoàn toàn.

Một kỷ niệm khác, khi đưa kỹ thuật can thiệp thần kinh về thì có trường hợp bệnh nhân bị xuất huyết não, do dị dạng mạch não vỡ, tình trạng rất nguy kịch. GS Phạm Minh Thông đã chữa trị thành công cho bệnh nhân bằng phương pháp nút mạch. Sau này ông gặp lại, cháu bé bệnh nhân ngày nào nay đã làm mẹ. Hằng năm cứ vào giáp Tết, người nhà của bệnh nhân này lại mang cây đào tới tặng ông. Những tình cảm chân thành, sự tri ân đó khiến ông rất cảm động, hạnh phúc.

Khi hỏi về GS Phạm Minh Thông, nhiều người cho biết, ông là người thầy giỏi chuyên môn, không những chuyển giao kinh nghiệm, kỹ năng mà ông còn truyền sự say mê nghiên cứu, học tập cho nhiều thế hệ học trò. TS Vũ Đăng Lưu, Phó trưởng khoa Chẩn đoán hình ảnh Bệnh viện Bạch Mai chia sẻ: “Thầy là một người đáng kính, luôn quan tâm tới việc bồi dưỡng, nâng cao tay nghề cho các bác sĩ, học viên, kỹ thuật viên chuyên ngành. Lần nào đi công tác thầy cũng tạo mối quan hệ hợp tác, tìm mọi suất học bổng mang về cho khoa, cho viện, khuyến khích, động viên, tạo điều kiện cho mọi người đi học. Rất nhiều lứa học trò đã được thầy gửi đi học ở khắp nơi trên thế giới. Nhiều người đã trở thành bác sĩ giỏi, có tiếng trong ngành điện quang trong nước và quốc tế”. Trong đời thường, GS Phạm Minh Thông còn là một người giản dị, hòa nhã, luôn ân cần quan tâm tới mọi người. “Với các bác sĩ, nhân viên, GS Phạm Minh Thông luôn sát sao. Khi biết ai có việc khó khăn hay người thân bị đau ốm, ông đều tận tình thăm hỏi, động viên. Ngoài ra, ông cũng luôn căn dặn bác sĩ, nhân viên phải coi bệnh nhân như người nhà, hết lòng phục vụ người bệnh”-chị Dương Thị Ngân, nhân viên hành chính Khoa Chẩn đoán hình ảnh nói.

Khi tiếp xúc, ai cũng nhận thấy sự nhanh nhẹn nhưng không thiếu cẩn trọng và một trái tim nhân hậu trong con người GS Phạm Minh Thông, đặc biệt là sự ân cần với người bệnh. Lần nào gặp GS Phạm Minh Thông, cuộc nói chuyện của tôi với ông cũng bị gián đoạn bởi những những cuộc điện thoại cứ khoảng 5 phút một lần. Người bệnh, người nhà bệnh nhân, các bác sĩ, học trò liên tục gõ cửa xin ông tư vấn, giúp đỡ. Với ai ông cũng từ tốn trả lời, hướng dẫn tỉ mỉ.

Có lần, ông dừng cuộc nói chuyện của tôi để giải đáp, chỉ dẫn cho một cụ già đang điều trị tại viện. Nhìn cách GS Phạm Minh Thông chăm chú giải thích, hướng dẫn cho cụ, tôi cảm thấy giữa ông và người bệnh không có một chút xa cách. Ông ân cần với người bệnh như với người thân trong gia đình…

GS Phạm Minh Thông cùng 4 học trò đã đoạt Giải thưởng Hồ Chí Minh về khoa học-công nghệ năm 2016, lĩnh vực y tế với cụm công trình “Ứng dụng các kỹ thuật tiên tiến trong chẩn đoán, điều trị một số bệnh lý mạch não bằng điện quang can thiệp nội mạch”. Hội đồng xét duyệt Giải thưởng Hồ Chí Minh đánh giá đây là cụm công trình đặc biệt xuất sắc, có giá trị khoa học-công nghệ lớn lao. Cụm công trình này đã làm thay đổi hoàn toàn cách tiếp cận can thiệp trước đây với hiệu quả rất cao và an toàn; có đóng góp to lớn về ứng dụng khoa học-công nghệ tiên tiến phục vụ sức khỏe nhân dân; đưa trình độ của ngành điện quang can thiệp nước ta ngang bằng các nước trong khu vực, thậm chí có thể sánh với các nước phát triển trên thế giới.

 

Bài và ảnh: HOÀNG LIÊN VIỆT ( theo báo Quân đội nhân dân)